Quản Trị Mạng – Ubuntu và Linux Mint là 2 hệ điều hành khá nổi tiếng trong cộng đồng sử dụng Linux hiện nay. Nếu bạn chuẩn bị chuyển sang sử dụng Linux và đang phân vân không biết lựa chọn hệ điều hành nào; hay bạn đang sử dụng một trong hai hệ điều hành này và không biết sự khác biệt giữa chúng là gì thì bài viết sau đây sẽ giúp hiểu rõ hơn về hai hệ điều hành này.
Contents
Phân biệt Ubuntu và Linux Mint
Ubuntu là gì?
Ubuntu là bản phân phối Linux phổ biến nhất trên thế giới. Bản phân phối này của Linux, được phát triển bởi Canonical Ltd. để sử dụng trên máy tính để bàn, máy chủ và nhiều ứng dụng khác.
Ubuntu cũng là hệ điều hành phổ biến nhất trong lĩnh vực đám mây. Nó là hệ điều hành mà Google xây dựng các công cụ phát triển Android của mình. Ubuntu là bản phân phối Linux đầu tiên được Valve hỗ trợ cho Steam. Khi hầu hết mọi người nghĩ về Linux, họ có thể nghĩ về Ubuntu.
Mặc dù Linux điều khiển phần lớn Internet, nhưng hầu hết mọi người đều chưa nghe nói về nó, chứ đừng nói đến việc sử dụng hệ điều hành này. Vậy, chính xác thì Linux là gì?
Về mặt kỹ thuật, Linux chỉ là một kernel, phần cốt lõi của một hệ điều hành máy tính. Linux kernel này là trung tâm của nhiều thứ hơn so với những gì mọi người tưởng tượng, bao gồm cả Android. Phần mềm thường được gọi là hệ điều hành Linux thực sự là sự kết hợp giữa Linux kernel và một bộ công cụ mã nguồn mở, nhiều công cụ đến từ dự án GNU. Đó là lý do một số người gọi nó là GNU/Linux.
Nói một cách đơn giản, GNU/Linux (hay gọi ngắn gọn là Linux dù không chính xác lắm) là một hệ điều hành mã nguồn mở được xây dựng xung quanh Linux kernel. Nó là một “hậu duệ” của hệ điều hành Unix, khiến nó trở thành “anh em họ” với các hệ điều hành BSD và macOS. Mặc dù những ứng dụng được xây dựng cho các hệ điều hành có liên quan này không hoạt động trực tiếp trên Linux, nhưng phần mềm thường được chuyển đổi qua lại giữa chúng. Xét cho cùng, các hệ thống cơ bản thực sự khá giống nhau và có lẽ trước đây người dùng đã có rất nhiều thời gian để chuyển đổi từ máy Mac sang Ubuntu hoặc ngược lại.
Ubuntu đã bắt đầu như thế nào?
Ubuntu không phải luôn là bản phân phối Linux phổ biến nhất. Trên thực tế, nó thực sự là một bản phân phối tương đối mới. Như đã nói, sự phát triển của Ubuntu tăng lên cùng với sự gia tăng về mức độ phổ biến của Linux nói chung.
Ubuntu bắt nguồn từ bản phân phối Debian Linux. Debian là một trong những bản phân phối lâu đời và được chào đón nhiều nhất. Nó đã phát triển nhiều tiến bộ mà người dùng Linux hiện đại đang sử dụng hàng ngày. Mark Shuttlesworth, một doanh nhân người Nam Phi, là một “fan hâm mộ” của Debian và đã làm việc với nó khi bắt đầu xây dựng công ty của mình, Thawte Consulting. Sau khi công ty được mua lại, Shuttlesworth đã chọn tài trợ cho việc phát triển một bản phân phối Linux mới, Ubuntu.
Mục tiêu ban đầu của Ubuntu là lấy Debian, khá khó cài đặt vào thời điểm năm 2004, làm nền tảng và tạo một bản phân phối Linux mà bất kỳ ai cũng có thể sử dụng. Trên thực tế, đó là thời điểm Microsoft Windows thống trị thị trường hệ điều hành máy tính để bàn và Ubuntu xuất hiện để thay đổi điều đó.
Các bản phát hành sớm nhất của Ubuntu tập trung vào việc phát triển các tính năng thân thiện với người dùng, như trình cài đặt đồ họa hướng dẫn người dùng các bước thiết lập Ubuntu. Ubuntu đã cấu hình máy tính cho chính người dùng. Đó là điều mà Linux chưa làm được vào thời điểm đó. Nó cung cấp một desktop sẵn sàng để sử dụng ngay khi cài đặt. Ubuntu cũng đưa ra quan điểm về việc tạo ra phần mềm của bên thứ ba, như các driver, có thể truy cập dễ dàng (một điểm gây trở ngại cho người dùng Linux ở thời điểm đó).
Rõ ràng, nỗ lực làm cho Linux dễ tiếp cận hơn đã có tác dụng vì Ubuntu nhanh chóng chiếm được cảm tình của người mới dùng và cả những người đã sử dụng Linux một thời gian dài.
Người dùng có thể làm gì với Ubuntu?
Bạn có thể làm bất cứ điều gì mình muốn với Ubuntu. Nó là một bản phân phối Linux mạnh mẽ và linh hoạt. Về lý thuyết, có thể cài đặt và chạy Ubuntu trên mọi thiết bị. Điều đó có nghĩa là có thể chạy Ubuntu trên máy tính để bàn và máy tính xách tay, v.v…
Sau đó, sử dụng Ubuntu để lưu trữ trang web trên máy chủ. Người dùng có thể xây dựng một thiết bị lưu trữ kết nối mạng để sao lưu các file trên mạng bằng Ubuntu. Tiếp theo, cài đặt Ubuntu Core trên Raspberry Pi để sử dụng nó làm thiết bị IoT. Cuối cùng, kết nối tất cả với bộ định tuyến được xây dựng tùy chỉnh và cũng chạy Ubuntu. Hoặc nếu muốn sáng tạo hơn, người dùng thậm chí có một số cách để chạy Ubuntu trên điện thoại Android.
Có thể ở thời điểm đọc bài viết này, bạn đang xem xét việc cài đặt Ubuntu trên máy tính để bàn hoặc máy tính xách tay. Cũng có nhiều lựa chọn để thực hiện việc này. Ubuntu có nhiều tính năng khác nhau, mỗi loại được xây dựng cho một mục đích cụ thể hoặc chủ yếu phục vụ cho môi trường desktop. Các môi trường desktop xác định giao diện của Ubuntu. Chúng cũng quyết định những tiện ích hệ thống đồ họa nào – chẳng hạn như trình quản lý file, công cụ lưu trữ và trình xem PDF – người dùng nhận được.
Ubuntu cũng giống như bất kỳ hệ điều hành máy tính để bàn nào khác. Người dùng có thể tìm thấy bất kỳ loại phần mềm nào mình cần trên Ubuntu và hầu hết đều miễn phí. Ubuntu cũng là một hệ điều hành để chơi game tuyệt vời. Có thể cài đặt Steam trên Ubuntu và sử dụng nó để chơi hàng ngàn game hấp dẫn, bao gồm cả một số game độc quyền cho Windows. Việc cài đặt driver mới nhất cho card đồ họa trên Ubuntu cũng không mấy khó khăn.
Mặc dù có thể không tìm thấy các chương trình giống nhau hoàn toàn, nhưng dường như thật khó để tìm ra một điều gì đó không thể làm trên Ubuntu desktop.
Tương lai của Ubuntu sẽ ra sao?
Thật khó để dự đoán những cải tiến mới cho Ubuntu, nhưng nó vẫn tiếp tục là một “ông trùm” trong hầu hết các lĩnh vực tiên tiến của thế giới công nghệ. Ubuntu luôn được yêu thích trên đám mây và nó tiếp tục đạt được nhiều thành tựu ở đó, với những cải tiến cho việc triển khai và các container. Nó cũng trở thành một lựa chọn yêu thích trong lĩnh vực AI và machine learning. Bản phân phối Linux phổ biến này cũng có phiên bản dành riêng cho IoT, Ubuntu Core và nó cũng đang tiếp tục phát triển theo hướng đó.
Việc IBM mua lại Red Hat hiện khiến Canonical trở thành công ty Linux độc lập lớn nhất. Tương lai có thể đi theo nhiều hướng và quá sớm để dự đoán điều đó là gì. Tùy thuộc vào việc IBM sẽ xử lý như thế nào với Red Hat, người dùng Red Hat và CentOS trước đây có thể thấy mình đang chuyển sang Ubuntu. Đó là vì Ubuntu là “tay chơi” lớn nhất trên cả thị phần máy tính để bàn và trong toàn bộ thị trường nói chung.
Tất nhiên, số tiền liên quan đến việc mua lại Red Hat cũng có thể tạo cảm hứng cho Canonical trong việc phát hành cổ phiếu lần đầu tiên hoặc thậm chí bán lại cho một “gã khổng lồ” trong giới công nghệ khác. Nếu những tin đồn là sự thật, đó có thể là một tập đoàn lớn như Microsoft. Đây thực sự chỉ là một sự đầu cơ tràn lan, vì vậy đừng lo lắng quá nhiều.
Dù tương lai Ubuntu sẽ thay đổi ra sao, thì người dùng vẫn có thể hy vọng một thứ gì đó tốt đẹp. Tất cả các dấu hiệu cho thấy sự tăng trưởng liên tục của Canonical và Ubuntu trên thị trường và cải thiện khả năng sử dụng và tính tương thích cho người dùng Ubuntu ở gia đình.
Linux Mint là gì?
Linux Mint là một bản phân phối hệ điều hành miễn phí, mã nguồn mở dựa trên Ubuntu và Debian, sử dụng trên các máy tương thích x-86 x-64.
Mint được thiết kế để dễ sử dụng và mang lại cho người dùng những trải nghiệm sáng tạo, bao gồm hỗ trợ đa phương tiện trên các môi trường desktop. Hệ điều hành này dễ cài đặt hơn hầu hết các bản phân phối Linux. Mint bao gồm phần mềm cần thiết cho e-mail, các chức năng trực tuyến, cũng như hỗ trợ cho những nội dung đa phương tiện, dù chúng ở trên mạng hoặc từ các file và phương tiện vật lý của người dùng.
Không giống như hầu hết các bản phân phối Linux, Mint bao gồm các plugin trình duyệt của bên thứ ba độc quyền, Java, media codec (một chương trình máy tính có khả năng mã hóa và giải mã các dữ liệu media) và các thành phần khác, cho phép hỗ trợ cho các chuẩn được phổ biến rộng rãi. Tính năng hỗ trợ này cho phép playback DVD và BluRay, cũng như flash để truyền phát trực tuyến. Hệ điều hành này đã tích hợp tường lửa, vì vậy Mint tuyên bố không cần bất cứ phần mềm chống virus nào khác. Mint tương thích với trình cài đặt Ubuntu, cho phép truy cập 30.000 phần mềm mã nguồn mở, miễn phí hiện có.
Có một số phiên bản desktop khác nhau của Mint, bao gồm Cinnamon, Gnome, XFCE và KDE, để hỗ trợ tốt nhất cho các phần cứng khác nhau. Hệ điều hành này cũng được cung cấp trong phiên bản Linux Mint Debian thay thế cho những hệ điều hành Linux quen thuộc hơn. Phiên bản này được cho là ít trực quan và thân thiện với người dùng hơn nhưng lại nhanh chóng và mang tính đáp ứng hơn.
Linux Mint là hệ điều hành gia đình phổ biến thứ ba, sau Windows của Microsoft và Mac OS của Apple.
So sánh Ubuntu và Linux Mint
Lịch sử hình thành
Linux là một hệ điều hành mã nguồn mở và bất kỳ ai cũng có thể chỉnh sửa, tùy biến theo ý thích của họ, Ubuntu và Mint là hai hệ điều hành được sinh ra từ đó. Phiên bản ổn định đầu tiên của Linux Mint có tên mã là Barbara được phát hành vào năm 2006, ngay lập tức tạo nên sự khác biệt so với Ubuntu. Nếu trên Ubuntu chỉ được đính kèm một số phần mềm mở làm mặc định trong bộ cài đặt và người dùng có thể thêm các tiện ích được phân phối trong Ubuntu Software Center thì ở Linux Mint đa dạng hơn bởi trong Mint có sẵn các công cụ độc quyền như Flash hay Java. Điều mà người dùng thích thú Linux Mint hơn Ubuntu chính là việc hỗ trợ các phần mềm mặc định trong bộ cài đặt hầu như là đủ dùng cho nhu cầu bình thường.
Giao diện người dùng
Đối với Ubuntu người dùng được quy định sẵn khuôn mẫu cho giao thức người dùng. Cho dù bạn có cài đặt các gói giao diện khác nhau chăng nữa thì cũng không khác nhau là mấy về phương diện sử dụng.
Trong khi đó Linux Mint có 2 giao thức rõ ràng là Cinnamon và MATE. Đố với Cinnamon là giao thức mà mọi tác vụ đều được gom vào một menu, từ menu này bạn có thể lựa chọn hầu hết những gì mà Mint cung cấp.
MATE tương tự như GNOME 2 trong Ubuntu, cách sử dụng hầu như không có sự khác biệt.
Xét về tính thẩm mỹ thì Mint có phần hơn Ubuntu cùng với các nút cửa sổ được đặt bên phải thay vì bên trái như Ubuntu.
Các ứng dụng độc quyền
Trong Mint đã bao gồm các phần mềm độc quyền như Flash hay Java và người dùng có thể thêm các mã code tùy ý, và đây chính là sự khác biệt của Mint. Trong khi đó trong Ubuntu bạn có thể lựa chọn những gì mình muốn có, để rồi Ubuntu sẽ tự động tải về những thứ cần thiết trong quá trình cài đặt.
Cấu hình
Mint hướng đến người dùng Linux chuyên nghiệp do đó nó bao gồm nhiều thành phần cấu hình hơn, trong khi Ubuntu giới hạn một số tùy chỉnh được cung cấp sẵn.
Phiên bản mới nhất của Mint có mã là Maya, bao gồm tiện ích quản lý MDM dựa trên GNOME Display Manager cũ. Ubuntu không hề có bất cứ tiện ích tùy chỉnh đồ họa nào kể cả tùy chỉnh màn hình đăng nhập trong khi với Mint người dùng có thể tùy chỉnh màn hình đăng nhập.
Phiên bản mới nhất của Ubuntu chính là sự pha trộn nhiều thành phần trong quá khứ lại để tạo nên cái mới, trong khi Linux Mint vẫn giữ vững hướng đi đã có.